Cung Phúc Đức là cung quan trọng nhất trong Tử Vi, có ảnh hưởng chi phối đến 11 cung số. Một cung Phúc tốt có thể gia tăng ảnh hưởng tốt và chế giảm những sự xấu của các cung khác. Xem cung Phúc có thể biết qua về phúc trạch, thọ yểu và sự thịnh suy trong dòng họ có ảnh hưởng đến chính mình, để từ đó hành thiện tích đức, gieo nhân tốt để cho đời sau được thiện quả. Ngoài ra còn có thể biết qua về âm phần trong dòng họ. Cung Phúc Đức cho biết rõ nhân quả, nghiệp báo của chính mình, là sự biểu hiện của Quả trong đương kiếp bởi Nhân.
Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ về hưởng thụ vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức thì chủ về những thứ trừu tượng hơn.
Có một số người nhìn bề ngoài thì nhận thấy "công thành danh toại" khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưng có thể nội tâm của người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có những khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi, nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốt mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.
Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tài phú, tam phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn nhân, tam phương cũng tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của con người ta, có thể ảnh hưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một hoài niệm.
Những điều trình bầy trong "tiết" này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, thì rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm chính yếu quan trọng.
Khi luận đoán cung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức của đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà xác định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề của người đó. Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất, trong một vận trình gặp Thiên Cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên, thì tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ về mệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến. Như vậy khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của cung Phúc đức nguyên cục.
Cung Phúc đức có các cát tinh như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thiên Lương, Lộc Tồn, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương miếu vượng địa thủ trị thì một đời phúc lộc an khang, sống lâu. Nếu như có các sao Vũ Khúc, Phá Quân, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Thiên Cơ, Thất Sát, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh hãm địa thì một đời ít phúc khí, làm việc vất vả bôn ba, giảm phúc giảm thọ.
Các thiện tinh nếu như gặp Tứ Sát Không Kiếp Hao Kị, thì phúc lộc sẽ giảm đi, tâm trí thiếu sự yên bình, làm việc vất vả, tuổi thọ giảm.
Hạn lưu niên đi qua cung Phúc Đức, gặp cát tinh thì sẽ có 1 năm phúc lộc thuận lợi, còn nếu gặp các hung Sát tinh thì sẽ có 1 năm khó khăn gian khổ, vất vả.
Tử Vi
Một đời gặp đc quí nhân, Miếu vượng địa thì phúc hậu, cả cuộc đời vui vẻ yên bình, tính tình cần cù, hứng thú với nhiều thứ, nhiệt tình và công tâm vs sự nghiệp. Sao Tử vi chủ về sống lâu, cung này và cung mệnh đều tốt thì thọ trên 84 tuổi, nếu thêm các sao tốt thì an nhàn, thêm các sao xấu thì vât vả, phúc khí suy giảm.
Tứ sát, Không kiếp, Đại Hoa, Thiên Hình thủ chiếu, ít phúc lại hay phiền não, thường tự tìm lấy phiền não. Thêm Hỏa tinh thì làm việc hay gấp gáp vội vàng. Có Hóa Kỵ thủ chiếu, thì đa sầu đa cảm.
Tử Vi, Thiên Phủ tại Dần, Thân, bản tính lạc quan, biết cách hưởng thu, chủ quí, phúc thọ song toàn, cả đời được hưởng phúc thọ
Tử Vi, Tham Lang tại Mão Dậu, miếu vượng địa trước khó sau dễ, tuổi trẻ vất vả, về già được phú quí.
Tử Vi, Thiên Tướng tại Thìn, Tuất, được hưởng phúc lộc, tốt thứ nhì sau Tử Tướng đồng cung.
Tử Vi, Thất Sát tại Tị, Hợi, chí cao, thường vì hiện thực không phù hợp với lý tưởng nên phiền não, nhỏ tuổi vất vả, trung niên trở ra có thể an nhàn, toại lòng như ý.
Tử Vi, Phá Quân tại Sửu, Mùi, nhỏ tuổi lao tâm lao lực, về già an lạc hưởng phúc, thường hay tự tìm niềm vui, mù quáng tự đánh giá cao bản thân.
Thiên Cơ
Chủ thao lược, ít được an nhàn, tuổi nhỏ càng bận rộn, tinh thần bất an, từ trung niên trở ra có thể được an nhàn. Thiên Cơ thường tư lự, hoạn được hoạn mất, thêm Hóa Kỵ càng rõ ràng. Bất an, hay suy nghĩ, mất ngủ. Thọ trên 63 tuổi, nếu cung này và cung mệnh đều tốt, thì phúc thọ có thể tăng thêm. Sở thích nhiều, nhưng có khuynh hướng học mà không thực hành, tính thích tôn giáo, học thuật, thêm Hóa Khoa và Văn Khúc, Hoa Cái thì hợp nghiên cứu thuật số.
Dương Đà thủ chiếu, giảm phúc thọ, khó khăn gian khổ, tự tìm phiễn não, cả đời bận rộn. Hỏa Linh, Không Kiếp, Thiên Hình, Đại hoa thủ chiếu, giảm phúc thọ, bận rộn vất vả, phúc bạc, hay phiền muộn.
Thiên Cơ, Thái Âm tại Dần Thân, chủ an nhàn vui vẻ, có phúc lộc, thích tìm sự yên tĩnh trong cái ồn ào.
Thiên Cơ, Cự Môn tại Mão Dậu, lao tâm lao lực, thường thay đổi chủ kiến giữa chừng, tư duy mẫn cảm, ở Mão thì tốt, ở Dậu thì vất vả, hay bất an.
Thiên Cơ, Thiên Lương tại Thìn Tuất, được cả phúc lẫn lộc, có thể tự tìm kiếm hưởng thụ.
Thái Dương
Nhanh gấp, thích động không thích tĩnh, tính tình thông minh sáng dạ, nhiệt thành với xã hội, phát đạt trong cái bận rộn, có quí nhân giúp đỡ. Thái Dương nhập miếu được phúc thọ quí, thọ trên 70 tuổi. Nếu hãm địa thì hay tự khiến bản thân bận rộn, thêm các sao ác Tứ Sát thì giảm phúc thọ, lại hay vất vả gian khổ. Đối với người nữ thì đây là mẫu người của sự nghiệp.
Người nữ, lấy được chồng nhiệt tình, trong khuê phòng là người biết hưởng thụ khoái lạc. Mệnh hoặc Cung này có Đào Hoa chiếu thì nặng thêm, nhu cầu sinh hoạt cao, hoặc dâm loạn.
Kình Dương, Hỏa Tinh thủ chiếu, chuyện nhỏ mà làm như chuyện lớn, không có gì nhưng vẫn ngược xuôi tất tả, hoặc vì chuyện của bạn bè mà bận rộn. Thái Dương, Thái Âm tại Sửu Mùi, Nhật Nguyệt đồng thủ, chủ đại cát, bận rộn nhưng vẫn hưởng thụ an nhàn vui vẻ.
Thái Dương, Cự Môn tại Dần, Thân, miếu vượng địa thì trẻ tuổi vất vả sau an nhàn, trong cái bận rộn mà sinh phúc.
Thái Dương, Thiên Lương tại Thìn Tuất, có sở thích của bậc nho sĩ, hoặc tiêu hóa kém, chủ kiến rất mạnh, tự tìm bận rộn. Cung Mão thì phúc lộc song toàn, cung Dậu thì lao tâm khổ tứ nhưng vẫn khó khăn.
Vũ Khúc
Lao tâm lao lực, gấp gáp cố chấp, không biết cách hưởng thụ. Miếu vượng địa thì an nhàn vui vẻ hưởng phúc, thọ trên 60 tuổi, hội thêm các sao tốt thì tuổi thọ tăng, có khả năng kiếm tiền. Bình hòa thì trước khó sau dễ. Hãm địa hoặc thêm Tứ Sát, không có tinh thần, hay tư lự, bản thân có kĩ nghệ, phúc bạc, vất vả, khó khăn. Thêm Đào Hoa, chủ về niềm vui thú rượu chè, sắc đẹp. Vũ Khúc, Hóa Kỵ, tốn công tốn sức. Hội Liêm Trinh Hóa Kỵ, chủ tự ti, sống nặng về tình cảm.
Vũ Khúc Thiên Phủ tại Tử Ngọ, sớm gặp khó khăn, trung niên trở ra thì an nhàn vui vẻ hưởng phúc.
Vũ Khúc Tham Lang tại Sửu Mùi, đa tình, hay có niềm vui rượu chè sắc đẹp, ban đầu khó khăn về già được an nhàn.Nếu gặp nhiều Sát tinh thì một đời gian khổ. Thêm Hỏa tinh thì được hưởng vui vẻ khoái lạc.
Vũ Khúc, Thiên Tướng tại Dần, Thân, có phúc lộc thọ vinh hoa. Nếu hãm địa thì về già mới được hưởng.
Vũ Khúc, Thất Sát tại Mão Dậu, vui ít buồn nhiều, đời sống tinh thần không tốt, kinh doanh độc lập, hay phiền lòng bất an, trước khổ sau an nhàn.
Vũ Khúc, Phá Quân tại Tị Hợi, vui ít buồn nhiều, đời sống tinh thần không tốt, hay phải ngược xuôi bất an, trẻ tuổi khó khăn về già được an nhàn.
Thiên Đồng
Là Phúc tinh, chủ hưởng phúc, cả đời được vui vẻ, đời sống tinh thần đầy đủ, có cuộc sống thú vị, biết cách hưởng thụ, khả năng thích nghi với hoàn cảnh cao, gặp chuyện gì cũng có người khác gánh vác thay. Miếu vượng địa thì tốt, cả đời hưởng phúc, phúc đến ?3 tuổi. Bình Hòa thì trước khó sau dễ. Nếu hãm địa, thêm Tứ Sát Không Kiếp thì cuộc sống gian khổ.
Thiên Đồng, Thái Dương tại Tử Ngọ, phúc lộc an khang, vui nhiều buồn ít, có thể nhận được sự ưu đãi bảo trợ của quí nhân. Người nữ dung mạo đẹp, bề ngoài có khí chất, có sức thu hút.
Thiên Đồng Cự Môn tại Sửu Mùi, có phẩm chất tu dưỡng. sớm vất vả già an nhàn. Có thêm Đà La, hay tự tìm phiền não.
Thiên Đồng Thiên Lương tại Dần Thân, đầy đủ phúc lộc thọ, nhưng hay bận rộn công việc. Thêm Không Kiếp thì bị giảm phúc.
Liêm Trinh
Chủ về bận rộn nhiều tâm tư, không được nghỉ ngơi, nếu hội nhiều sao tốt thì trong cái bận rộn sinh phúc, thọ trên 70. Bình hòa thì hay bất an, phải bôn ba. Nếu hãm địa lại thêm Tứ Sát thì nghèo khó. Tứ Sát Đại Hao thủ chiếu thì vô phúc mà vất vả.
Liêm Trinh, Thiên Phủ tại Thìn Tuất, lộc nhiều hơn phúc, có thể tự tìm thấy niềm vui, nhưng thân bình ổn mà tâm vẫn vướng bận.
Liêm Trinh Tham Lang tại Tị Hợi, phúc lộc khó khăn, thân hay bất an, bận rộn khác thường. Thêm Hóa Kỵ, cả đời ưu sầu bất an, lao tâm khổ tứ, hoặc mất ngủ. Hội thêm Xương Khúc thì chú trọng hưởng thụ về mặt tinh thần, hội thêm Dương Đà thì trọng hưởng thụ về vật chất.
Liêm Trinh Thiên Tướng tại Tý Ngọ, thọ nhiều hơn phúc, có thể tự có được niềm vui, tuổi trẻ vất vả về già hưởng phúc.
Liêm Trinh Thất Sát tại Sửu Mùi, phúc bạc lộc bạc, cả đời vất vả bận rộn, ít được hưởng thụ.
Liêm Trinh Phá Quân tại Mão Dậu, không kiên trì và bình tĩnh, lao tâm phí lực mà vất vả gian khổ.
Thiên Phủ
Là người cẩn thận, bình tĩnh, hưởng phúc, Miếu vượng địa thì phúc lộc đều đẹp, tài vận tốt, cung này và cung này đều tốt, cả đời bình an, thọ trên 85 tuổi, bình hòa thì trước khó sau dễ. Nếu hãm địa lại thêm Sát tinh thì gian khó.
Đà La thủ chiếu, keo kiệt, thích tự chuốc phiền não không đáng có vào thân. Kình Dương, Thiên Phủ thủ chiếu, trong tâm phiền muộn bất an, thường cảm thấy tinh thần bị uy hiếp. Không Kiếp, Đại Hao thủ chiếu, không có chuyện gì được nhàn tản
Thái Âm
Thích tĩnh, sáng sủa, không thích tranh chấp, là người có tư tưởng chảy trôi chậm rãi, chú trọng đời sống tinh thần, thích nghiên cứu về tôn giáo, triết học, thần bí học, chiêm bậc học. Nhập miếu phúc lộc song toàn, an lạc hưởng phúc, thọ trên 75 tuổi. Bình Hòa thì có buồn cũng có vui. Hãm địa thì tinh thần cô quả, bi ai, hướng nội, thêm Sát tinh thì vất vả thêm khổ. Người nam có tính cách duyên số khác lạ, tự cảm thấy có sức thu hút, gặp Đào hoa thì có người yêu anh ta đến chết đi sống lại.
Thái Âm Hóa Kỵ, bên ngoài bình tĩnh, bên trong bất an. thêm Xương Khúc đồng cung, có sự hưởng thụ tao nhã thanh cao. Thêm Đà la, Hỏa Tinh đồng cung thì gian trá, âm mưu, không toàn vẹn, hay tự phiền não và tìm việc bận rộn. Thêm Kình Dương, Linh Tinh đồng cung thì gian trá, âm mưu, không đầy đủ. Thêm Không kiếp, ảo tưởng quá nhiều
Tham Lang
Cả đời bận rộn bôn ba, nhập miếu thì không phá phách, hóa cát hội cát, là người hưởng thụ thú vui thích ăn uống, thích rượu hoặc thích sắc dục, có chuyện phong lưu. Cung mệnh có cát tinh thì chủ quí chủ thọ, thọ trên 63 tuổi. Hãm địa lại thêm Sát tinh thì khó khăn vất vả.
Tham Lang Hóa Kỵ, có phiền não về tình cảm, dễ phát sinh vấn đề khi giao lưu với người khác phái. Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hàm Trì, Thiên Diêu thủ chiếu, là người phong lưu. Có Đào hoa, có niềm vui thích với nữ giới. Dương Đà, Thiên Hình, Đại Hao, Không Kiếp thủ chiếu, hay ưu tư mâu thuẫn, phúc nhược bất an. Hỏa Linh đồng cung, tuy rằng có thể hưởng phúc, nhưng gấp gáp vội vàng, dễ đầu cơ.
Cự Môn
Làm việc gì cũng phải tự làm, lao tâm lao lực, cả đời tinh thần bất an, ít được vui vẻ. Nhập miếu hưởng phúc, dễ sinh chuyện thị phi, cung mệnh có nhiều sao tốt thì thọ trên 70 tuổi. Bình hòa hoặc hãm địa, hay ưu sầu, buồn bã, thần kinh suy nhược.
Cự Môn Hóa Quyền Lộc, hao tổn sức lực và tinh thần, theo đuổi mãnh liệt nhu cầu vật chất, về mặt tinh thần không vui vẻ. Cự Môn Hóa Kỵ, tâm thần bất định, hay mất ngủ, làm việc hay tiến thoái do dự, hoài nghi, cả đời không được vui vẻ. Tứ Sát thủ chiếu, tự tìm lấy phiền não, đa sầu đa cảm, do lời nói mà dẫn đến tranh chấp, không có phúc để hưởng.
Thiên Tướng
Thường khá trọng hưởng thụ vật chất, đề cao ăn ngon mặc đẹp. Miếu địa thì an nhàn hưởng phúc, vui nhiều buồn ít, phúc khí tự nhiên. Cung này và cung mệnh đều tốt thì thọ trên 80 tuổi. Bình hòa, hãm địa lại thêm các sao xấu Tứ Sát thì chắc chắn giảm thọ, cả đời lao tâm bận rộn, cuộc sống không bình yên, ít được hưởng thủ.
Tả Hữu Lộc thủ chiếu, hưởng thụ niềm vui, phú quí thọ đều có. Hóa Kỵ thủ chiếu, đa sầu đa ưu, tâm trí không được thanh thản. Không Kiếp đồng cung, hay mơ mộng tưởng tượng, ít khi thực tế, phúc bạc. Tứ Sát thủ chiếu, phúc bạc. tinh thần không an định, làm việc dễ sinh việc ngoài ý muốn.
Thiên Lương
Là người chú trọng đời sống tinh thần, có thể kí thác ở mặt tinh thần, hoặc có hứng thú đối với văn học, tôn giáo, y học. Miếu vượng địa thì phúc lộc song toàn, hưởng yên bình vui vẻ, có phong thái của bậc danh dĩ. Cung này và cung mệnh đều tốt thì thọ trên 83 tuổi. Bình hòa hay hãm địa thêm các sao xấu Tứ Sát, thì hay vướng chuyện thị phi, do lời nói mà gây tranh chấp, bôn tẩu phiêu dạt, bi quan, phúc bạc.
Tị Hợi Thân hãm địa, hội Thiên Mã, Không, Kiếp, Đại Hao, hay phải bôn ba không yên. Thêm Thiên Vu, tư tưởng siêu thoát. Thêm Hoa Cái, có tôn giáo tín ngưỡng, thêm Không Vong, tư tưởng không dễ thông cảm cho người bình thường. Thêm Hỏa Tinh, phiền não bất an, giả vờ thiện lành. Thêm Linh Tinh, trong tư tưởng có nhiều điều mờ ám, giả vờ thiện lành. Thêm Dương Đà, giả vờ thiện lành, tự tìm phiền não. Thêm Hóa Kỵ, vô phúc, hay phiền não.
Thất Sát
Nhập miếu thì cả đời bận rộn vất vả, thích cái mạnh, tranh chấp thắng thua, hội cát thì lao tâm. Nhiều lý tưởng, coi trọng lợi ích cá nhân, mỗi lần phân tích, thấy mình không bằng người thì bất mãn. Bình hòa hoặc thêm Sát tinh, thì tư tưởng tiêu cực, làm nhiều nhưng thành công ít, cả đời vô phúc. Người có cung mệnh tốt thì thọ trên 60 tuổi.
Người nữ có cung này là điềm không tốt, đắm chìm trong sự thoái lạc, địa vị không cao, hoặc làm những công việc có tính chất phục vụ cuộc sống thường ngày, cũng chủ khắc phu tai nạn, thương tích, tù tội. Là vợ lẽ hoặc kết hôn muộn, hoặc lấy người đã từng li hôn. Nếu như thêm Sát Kỵ, cung mệnh không tốt thì là ca kỹ. Sách có viết: “(Nữ mệnh) Thất Sát đơn cư phúc đức, nữ nhân thiết kị, tiện vô nghi”
Nhập miếu hội cát tinh, thì phúc thọ khí cao, nhưng không lợi người vợ, chủ hình khắc hoặc kết hôn muộn. Thêm Hóa Kỵ, đa sầu đa ưu, nhiều chuyện thị phi.
Phá Quân
Ngoài hào hoa trong hư sầu, hay ưu phiền không vui, ít niềm vui, làm chuyện gì cũng hay hối hận, bất toàn, đời sống tinh thần không an định. Miếu vượng địa thì dứt khoát, quyết đoán, chuyện gì cũng tự tay làm, hay tốn công tốn sức. Cung Mệnh có cát tinh thì thọ trên 57 tuổi. Hãm địa thì phúc bạc, thêm Tứ Sát thì gian khổ, phiền muộn bất an, làm nhiều mà thành công ít, tuổi thọ bị giảm.
Thêm Hóa Kỵ thì đa sầu đa cảm, chuyện gì cũng không quyết đoán. Thêm Không Kiếp thì hay ảo tưởng lãng mạn mà ít thực tế.
Văn Xương, Văn Khúc
Văn Xương: Miếu vượng địa thì phúc lộc vinh xương. Cung Mệnh có sao tốt thì thọ đến 77 tuổi hoặc 83 tuổi. Hãm địa có thêm Tứ Sát thì tuổi thọ giảm mà bất an.
Văn Khúc: Miếu vượng có thêm các cát tinh thì phúc lộc đều có. Cung Mệnh tốt thì thọ trên 63 tuổi. Bình Hòa hoặc hãm địa thêm Tứ Sát thì bất an. Hễ Xương Khúc nhập Phúc Đức, thì người có nhiều thú vui, thông minh phong lưu, có khí chất phong cách, đa nghệ, biết cách hưởng thụ, thích đọc sách, bẩm sinh lạc quan, có hứng thú với đồ của người khác giới.
Tả Phù, Hữu Bật
Tả Phù: thêm cát tinh thì có cả phúc lộc, độc thủ thì về già mới yên ổn, thọ trên 80 tuổi, thêm Tứ Sát Không Kiếp thì phúc lộc thọ đều giảm.
Hữu Bật: phúc lộc toàn mĩ, thêm cát tinh thì đời ít chuyện buồn. Cung Mệnh có cát tinh thì thọ trên 80 tuổi, thêm Tứ Sát Không Kiếp thì phúc lộc thọ đều giảm.
Hễ cung Phúc Đức có Phù Bật, thì cuộc sống yên định, biết cách hưởng thụ, lạc quan, độ lượng.
Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền
Chủ 1 đời làm bạn với người quyền quí, hay nhận được sự giúp đỡ, cả đời hưởng phúc, đời sống giàu có, tinh thần vui vẻ, nhiều cát tinh cùng chiếu cộng thêm cát tinh ở cung bản mệnh thì thọ trên 77 tuổi.
Lộc Tồn
Cả đời được hưởng nhiều phúc, an lạc, 1 đời vui vẻ, thêm cát tinh thì càng đẹp, thọ trên 78 tuổi, thêm Hỏa Linh thì giảm phúc, khó khăn, kỵ gặp Không Kiếp sẽ ít phúc không được toại lòng.
Kình Dương, Đà La
Kình Dương: Nhập miếu thì trong khi làm việc có phúc, hãm địa thì bôn ba vất vả, tự tìm phiền muộn, nếu có cát tinh cùng chiếu thì giảm ưu sầu. Hãm địa lại thêm Hỏa Linh, Không Kiếp thì phúc bạc thọ giảm, khó mà sống lâu.
Đà La: Nhập miếu có cát tinh thì chủ phúc nhưng không tránh được vât vả, hãm địa gian khổ kiếm sống, tự tìm phiền não, thêm Sát tinh Không Kiếp thì phúc bạc lộc ít, mà tuổi thọ giảm.
Hỏa Tinh, Linh Tinh
Độc thủ thì vât vả gian khổ, được cát tinh chiếu thì bình thường, tuổi già toại chí, thọ trên 57 tuổi, thêm Sát Ác tinh thì càng khó khăn.
Hễ Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát nhập Phúc Đức, thì chủ bận bịu, ít được nghỉ ngơi, đời sống tinh thần bất an, vui ít buồn nhiều, tổn thọ tổn phúc.
Thiên Không, Không Kiếp
Chủ bận rộn ít phúc, tổn phúc tổn lộc, hay bi quan, hay ảo tưởng, làm nhiều nhưng thành quả ít, lí tưởng và thực tế thoát ly nhau, làm chuyện gì cũng được một nửa là hỏng.
Hóa Kỵ
Chủ bận rộn ít được nghỉ ngơi, chuyện gì cũng nghĩ không thông, làm không tới, tinh thần bất an, hay sầu khổ, tổn phúc tổn thọ
Về cung này, các sách đều nói là trong giòng họ hiếm người, nhưng tôi nghiệm thấy nhiều trường hợp, không phải hiếm người mà thực ra vì dòng họ phân tán đi các nơi khác nên mới hiếm, hoặc là có trường hợp không phân tán, thì mạnh ai người ấy sống !? chẳng ai giúp ai được điều gì, anh em “kiến giả nhất phận”. Ngòai ra tôi cần nói thêm rằng : Nếu có thêm Đào, Hồng, Nhật, Nguyệt hội chiếu thì phải đóan rằng trong giòng họ có nhiều đàn bà hiếm con trai, hoặc sống trong cảnh góa bụa , độc thân suốt đời ! Tôi chưa nghiệm được sao gì thì chủ về đàn ông trong giòng họ bị như vậy. Tuy có vị cho rằng khi có sao Nam Đẩu tinh (chính tinh) thì chủ về đàn ông, nhưng nhiều khi sai .
Cũng vì hai sao này có ý nghĩa nêu trên, cho nên khi cung Phúc-Đức của mình, nếu có Cô-Qủa thì tuyệt đối mình không nên sống chung đụng với họ hàng, kể cả anh em ruột thịt để tránh sự hiềm khích, va chạm, có thể đi tới chỗ tuyệt tình. Ở xa thì hai sao này đã có môi trường họat động nên trong giòng họ có thể thuận hòa với nhau được, tuy không ai hết lòng với ai.
XEM TỬ VI CUNG PHÚC ĐỨC
Xem tử vi trọn đời
- 1930 | 1990➠ Canh Ngọ Mạng Thổ Lộ Bàng Thổ (Đất đường đi)
- 1931 | 1991➠ Tân Mùi Mạng Thổ Lộ Bàng Thổ (Đất đường đi)
- 1932 | 1992➠ Nhâm Thân Mạng Kim Kiếm Phong Kim (Vàng mũi kiếm)
- 1933 | 1993➠ Quý Dậu Mạng Kim Kiếm Phong Kim (Vàng mũi kiếm)
- 1934 | 1994➠ Giáp Tuất Mạng Hỏa Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi)
- 1935 | 1995➠ Ất Hợi Mạng Hỏa Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi)
- 1936 | 1996➠ Bính Tý Mạng Thủy Giản Hạ Thủy (Nước cuối nguồn)
- 1937 | 1997➠ Đinh Sửu Mạng Thủy Giản Hạ Thủy (Nước cuối nguồn)
- 1938 | 1998➠ Mậu Dần Mạng Thổ Thành Đầu Thổ (Đất đắp thành)
- 1939 | 1999➠ Kỷ Mão Mạng Thổ Thành Đầu Thổ (Đất đắp thành)
- 1940 | 2000➠ Canh Thìn Mạng Kim Bạch Lạp Kim (Vàng sáp Ong)
- 1941 | 2001➠ Tân Tỵ Mạng Kim Bạch Lạp Kim (Vàng sáp Ong)
- 1942 | 2002➠ Nhâm Ngọ Mạng Mộc Dương Liễu Mộc (Gỗ cây Dương Liễu)
- 1943 | 2003➠ Quý Mùi Mạng Mộc Dương Liễu Mộc (Gỗ cây Dương Liễu)
- 1944 | 2004➠ Giáp Thân Mạng Thủy Tuyền trung thủy(Nước trong suối)
- 1945 | 2005➠ Ất Dậu Mạng Thủy Tuyền trung thủy(Nước trong suối)
- 1946 | 2006➠ Bính Tuất Mạng Thổ Ốc thượng thổ (Đất trên nóc nhà )
- 1947 | 2007➠ Đinh Hợi Mạng Thổ Ốc thượng thổ (Đất trên nóc nhà )
- 1948 | 2008➠ Mậu Tý Mạng Hỏa Tích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét)
- 1949 | 2009➠ Kỷ Sửu Mạng Hỏa Tích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét)
- 1950 | 2010➠ Canh Dần Mạng Mộc Tùng Bách Mộc (Gỗ Tùng Bách)
- 1951 | 2011➠ Tân Mão Mạng Mộc Tùng Bách Mộc (Gỗ Tùng Bách)
- 1952 | 2012➠ Nhâm Thìn Mạng Thủy Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)
- 1953 | 2013➠ Quý Tỵ Mạng Thủy Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)
- 1954 | 2014➠ Giáp Ngọ Mạng Kim Sa Trung Kim (Vàng trong cát)
- 1955 | 2015➠ Ất Mùi Mạng Kim Sa Trung Kim (Vàng trong cát)
- 1956 | 2016➠ Bính Thân Mạng Hỏa Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi)
- 1957 | 2017➠ Đinh Dậu Mạng Hỏa Sơn Đầu Hỏa (Lửa trên núi)
- 1958 | 2018➠ Mậu Tuất Mạng Mộc Bình địa mộc (Cây ở đồng bằng)
- 1959 | 2019➠ Kỷ Hợi Mạng Mộc Bình địa mộc (Cây ở đồng bằng)
- 1960 | 2020➠ Canh Tý Mạng Thổ Bích Thượng Thổ (Đất tò vò)
- 1961 | 2021➠ Tân Sửu Mạng Thổ Bích Thượng Thổ (Đất tò vò)
- 1962 | 2022➠ Nhâm Dần Mạng Kim Kim Bạch Kim (Vàng pha Bạc)
- 1963 | 2023➠ Quý Mão Mạng Kim Kim Bạch Kim (Vàng pha Bạc)
- 1964 | 2024➠ Giáp Thìn Mạng Hỏa Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to)
- 1965 | 2025➠ Ất Tỵ Mạng Hỏa Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to)
- 1966 | 2026➠ Bính Ngọ Mạng Thủy Thiên Hà Thủy (Nước trên trời)
- 1967 | 2027➠ Đinh Mùi Mạng Thủy Thiên Hà Thủy (Nước trên trời)
- 1968 | 2028➠ Mậu Thân Mạng Thổ Đại Trạch Thổ (Đất nền Nhà)
- 1969 | 2029➠ Kỷ Dậu Mạng Thổ Đại Trạch Thổ (Đất nền Nhà)
- 1970 | 2030➠ Canh Tuất Mạng Kim Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức)
- 1971 | 2031➠ Tân Hợi Mạng Kim Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức)
- 1972 | 2032➠ Nhâm Tý Mạng Mộc Tang Đố Mộc (Gỗ cây Dâu)
- 1973 | 2033➠ Quý Sửu Mạng Mộc Tang Đố Mộc (Gỗ cây Dâu)
- 1974 | 2034➠ Giáp Dần Mạng Thủy Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)
- 1975 | 2035➠ Ất Mão Mạng Thủy Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)
- 1976 | 2036➠ Bính Thìn Mạng Thổ Sa Trung Thổ (Đất pha Cát)
- 1977 | 2037➠ Đinh Tỵ Mạng Thổ Sa Trung Thổ (Đất pha Cát)
- 1978 | 2038➠ Mậu Ngọ Mạng Hỏa Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)
- 1979 | 2039➠ Kỷ Mùi Mạng Hỏa Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)
- 1980 | 2040➠ Canh Thân Mạng Mộc Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu đá)
- 1981 | 2041➠ Tân Dậu Mạng Mộc Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu đá)
- 1982 | 2042➠ Nhâm Tuất Mạng Thủy Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)
- 1983 | 2043➠ Quý Hợi Mạng Thủy Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)
- 1984 | 2044➠ Giáp Tý Mạng Kim Hải Trung Kim (Vàng trong biển)
- 1985 | 2045➠ Ất Sửu Mạng Kim Hải Trung Kim (Vàng trong biển)
- 1986 | 2046➠ Bính Dần Mạng Hỏa Lư Trung Hỏa (Lửa trong lò)
- 1987 | 2047➠ Đinh Mão Mạng Hỏa Lư Trung Hỏa (Lửa trong lò)
- 1988 | 2048➠ Mậu Thìn Mạng Mộc Đại Lâm Mộc (Gỗ rừng già)
- 1989 | 2049➠ Kỷ Tỵ Mạng Mộc Đại Lâm Mộc (Gỗ rừng già)